Thu nhập ổn định – Giaitri.org https://giaitri.org Kênh thông tin giải trí tổng hợp hàng đầu, mang đến cho bạn những tin tức nóng hổi, phim ảnh hấp dẫn, âm nhạc đỉnh cao, game kịch tính và đời sống sao đầy màu sắc. Khám phá thế giới giải trí đa dạng, phong phú và luôn được cập nhật! Tue, 16 Sep 2025 03:04:04 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/giaitri/2025/08/giaitri.svg Thu nhập ổn định – Giaitri.org https://giaitri.org 32 32 Người đàn ông ‘xử đẹp’ bể phốt để nuôi gia đình và tình yêu https://giaitri.org/nguoi-dan-ong-xu-dep-be-phot-de-nuoi-gia-dinh-va-tinh-yeu/ Tue, 16 Sep 2025 03:03:59 +0000 https://giaitri.org/nguoi-dan-ong-xu-dep-be-phot-de-nuoi-gia-dinh-va-tinh-yeu/

Ở thành phố Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, có một gia đình đã gắn bó với nghề hút bể phốt hơn 20 năm. Câu chuyện về gia đình ông Phan Phong, người đã chuyển từ công nhân nhà máy sang nghề thông cống, rửa máy hút mùi và cuối cùng là hút hầm cầu, là một ví dụ về việc thích nghi và tạo ra thu nhập ổn định trong một lĩnh vực không mấy “sang trọng”.

Bạn gái Hạo Nam quen qua mạng. Ảnh: 163
Bạn gái Hạo Nam quen qua mạng. Ảnh: 163

Con trai của ông Phong, Phan Hạo Nam, sinh năm 1997, đã lớn lên trong môi trường làm việc này. Từ nhỏ, anh đã theo cha đi làm và quen với mùi hôi, cảnh lấm lem. Sau khi học đạo diễn phim và khởi nghiệp, anh vẫn quyết định nối nghiệp cha, trở thành “thế hệ hút hầm cầu thứ hai”. Quyết định này của anh không chỉ thể hiện sự kính trọng đối với công việc của cha mình mà còn là một lựa chọn để tạo ra thu nhập ổn định cho bản thân và gia đình.

Công việc vất vả, người đầy mùi hôi nhưng thu nhập khá ổn. Ảnh: 163
Công việc vất vả, người đầy mùi hôi nhưng thu nhập khá ổn. Ảnh: 163

Một ngày làm việc của Phan Hạo Nam bắt đầu từ sáng sớm. Anh mặc đồ bảo hộ kín mít, kéo ống hút nặng hàng chục kg, mở nắp các bể phốt công cộng để hút. Sau khi xong việc, anh còn phải dọn dẹp, khử mùi, rửa sạch khu vực để không làm ảnh hưởng đến người dân xung quanh. Công việc này đòi hỏi sự chăm chỉ, tỉ mỉ và một sức khỏe tốt, nhưng đổi lại, thu nhập mà anh nhận được là khá ổn định.

Anh chàng dự định tổ chức một đám cưới đặc biệt. Ảnh: 163
Anh chàng dự định tổ chức một đám cưới đặc biệt. Ảnh: 163

Không chỉ có thu nhập tốt, Phan Hạo Nam còn tìm được tình yêu đẹp qua mạng với cô gái 9X Lý Nhã Thanh, một cô giáo mầm non sống ở Bạc Châu, An Huy. Dù công việc của anh không được coi là “sang”, nhưng tình yêu và sự chân thành của họ đã khiến dư luận ngưỡng mộ. Câu chuyện tình yêu của họ là một minh chứng cho việc không nên nhìn vào nghề nghiệp của một người để đánh giá họ.

Về phần mình, Phan Hạo Nam hy vọng một ngày cưới, anh sẽ lái một đoàn xe hút hầm cầu thật sạch sẽ đi sau xe cưới. Điều này cho thấy anh vẫn tự hào về công việc của mình và muốn chia sẻ niềm vui với mọi người. Sự tự hào và hạnh phúc của anh là một điều đáng quý, và câu chuyện của anh có thể truyền cảm hứng cho nhiều người trẻ khác.

Gia đình Phan Hạo Nam đã có thể mua nhà và có xe hơi riêng nhờ vào thu nhập ổn định từ công việc hút hầm cầu. Tuy nhiên, đối với họ, điều quan trọng hơn là sự hạnh phúc và tự hào về công việc của mình.

]]>
‘Bánh đa Dụ Đại – Tinh hoa truyền thống làng quê Bắc Bộ’ https://giaitri.org/banh-da-du-dai-tinh-hoa-truyen-thong-lang-que-bac-bo/ Thu, 07 Aug 2025 10:20:55 +0000 https://giaitri.org/banh-da-du-dai-tinh-hoa-truyen-thong-lang-que-bac-bo/

Tại tỉnh Hưng Yên, làng Dụ Đại thuộc xã Quỳnh An vẫn tiếp tục duy trì và phát triển nghề làm bánh đa truyền thống, một nghề đã gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân nơi đây qua nhiều thế hệ. Cách thủ đô Hà Nội khoảng 100km, làng Dụ Đại mang đến một bức tranh yên bình về một làng quê Bắc Bộ thuần Việt. Bên cạnh việc trồng lúa, người dân Dụ Đại còn tạo ra những sản phẩm bánh đa chất lượng cao, góp phần đa dạng hóa sản phẩm và tăng thu nhập cho gia đình.

Bánh đa được phơi khô đạt chuẩn trước khi bán ra thị trường. Ảnh: Trọng Cung
Bánh đa được phơi khô đạt chuẩn trước khi bán ra thị trường. Ảnh: Trọng Cung

Làng nghề Dụ Đại chuyên sản xuất hai loại bánh đa chính, đó là bánh đa trắng và nâu gạch. Đây là những sản phẩm quan trọng không thể thiếu trong ẩm thực địa phương, đặc biệt là trong bát canh cá Quỳnh Côi nổi tiếng. Để tạo nên những sợi bánh đa thơm ngon và giữ được độ giòn, dai, đậm đà, người dân nơi đây đã rất kỹ lưỡng trong quá trình sản xuất, ngay từ khâu chọn nguyên liệu.

Những phên tre xếp đầy bánh đa phơi nắng ở làng Dụ Đại, xã Quỳnh An, tỉnh Hưng Yên. Ảnh: Trọng Cung
Những phên tre xếp đầy bánh đa phơi nắng ở làng Dụ Đại, xã Quỳnh An, tỉnh Hưng Yên. Ảnh: Trọng Cung

Theo kinh nghiệm của các nghệ nhân và chủ cơ sở sản xuất, bí quyết để tạo nên thương hiệu bánh đa Dụ Đại nằm ở cách chọn gạo ngon và kỹ thuật xay bột cũng như tráng bánh ở độ chín phù hợp. Người dân Dụ Đại đã tích lũy kinh nghiệm qua nhiều thế hệ để có thể sản xuất ra những sản phẩm bánh đa chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Bánh đa được phơi khô đạt chuẩn trước khi bán ra thị trường. Ảnh: Trọng Cung
Bánh đa được phơi khô đạt chuẩn trước khi bán ra thị trường. Ảnh: Trọng Cung

Sau khi tráng xong, bánh đa được xếp lên phên tre và phơi khắp các con đường, ngõ xóm trong làng. Cảnh tượng những phên bánh đa được phơi nghiêng dựa vào những bức tường đã tạo nên một hình ảnh bình yên và đặc trưng của làng nghề này. Ông Nam, một người dân của làng Dụ Đại, chia sẻ rằng gia đình ông đã làm bánh đa trong nhiều chục năm qua và đây là một công việc đòi hỏi sự kiên nhẫn và vất vả.

Những phên tre xếp đầy bánh đa phơi nắng ở làng Dụ Đại, xã Quỳnh An, tỉnh Hưng Yên. Ảnh: Trọng Cung
Những phên tre xếp đầy bánh đa phơi nắng ở làng Dụ Đại, xã Quỳnh An, tỉnh Hưng Yên. Ảnh: Trọng Cung

Để bánh đa có được độ ngon đặc trưng, gia đình ông cũng như các hộ khác trong làng thường phơi bánh đa tự nhiên khi thời tiết có nắng. Quá trình sản xuất bánh đa không chỉ đòi hỏi sự kiên nhẫn mà còn yêu cầu kỹ thuật cao để đảm bảo sản phẩm có chất lượng tốt nhất. Nghề làm bánh đa không chỉ là cách để người dân lưu giữ hương vị và tinh hoa của truyền thống mà còn là nguồn thu nhập ổn định cho gia đình và cộng đồng.

Công đoạn làm bánh đa đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận. Ảnh: Trọng Cung
Công đoạn làm bánh đa đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận. Ảnh: Trọng Cung

Bằng việc nắm giữ bí quyết của làng nghề và áp dụng công nghệ, máy móc hiện đại vào sản xuất, người dân Dụ Đại đã giúp cho làng nghề này có thêm sức sống và vươn mình để hội nhập. Việc kết hợp giữa phương pháp truyền thống và công nghệ hiện đại đã giúp nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng năng suất sản xuất.

Công đoạn làm bánh đa đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận. Ảnh: Trọng Cung
Công đoạn làm bánh đa đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận. Ảnh: Trọng Cung

Hiện nay, làng Dụ Đại có khoảng 100 hộ sản xuất bánh đa, với mỗi ngày trung bình các cơ sở sản xuất lớn cung cấp ra thị trường khoảng 30 tấn bánh thành phẩm. Sự phát triển của làng nghề không chỉ góp phần vào việc bảo tồn các giá trị truyền thống mà còn nâng cao đời sống của người dân địa phương. Làng bánh đa Dụ Đại đã trở thành một biểu tượng cho sự phát triển và hội nhập của các làng nghề truyền thống tại Việt Nam.

]]>
Phụ nữ dân tộc thiểu số ‘đổi đời’ nhờ trồng măng https://giaitri.org/phu-nu-dan-toc-thieu-so-doi-doi-nho-trong-mang/ Mon, 04 Aug 2025 07:16:56 +0000 https://giaitri.org/phu-nu-dan-toc-thieu-so-doi-doi-nho-trong-mang/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Tại các xã Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé, đồng bào dân tộc thiểu số đã gắn bó mật thiết với rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã tham gia vào các dự án phát triển ngành măng, đưa sản phẩm từng bước chinh phục thị trường. Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó. Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch. Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng tăng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ. Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ. Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua. Đây là những bước tiến quan trọng giúp các thành viên trong hợp tác xã, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào thương lái.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng.

Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo.

Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương. Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng.

Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất. Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm.

Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tạo việc làm và mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu quan trọng của các dự án phát triển ngành măng. Không chỉ hướng tới lợi nhuận, mô hình hợp tác xã măng còn mang giá trị xã hội lớn.

Từ chỗ lao động đơn lẻ, manh mún, người dân, nhất là phụ nữ dân tộc thiểu số được tổ chức sản xuất bài bản, có thu nhập ổn định, có cơ hội học hỏi và thể hiện vai trò lãnh đạo. Nhờ những thay đổi tích cực trong ngành măng cùng với quyết tâm không ngừng nghỉ của những người phụ nữ như chị Triệu Thị Lai và chị Hà Thị Thu Hương, những ngọn măng trong rừng núi Lào Cai không chỉ đơn thuần là kế sinh nhai mà còn góp phần tạo nên cho sự phát triển bền vững cho cộng đồng.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm. Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu. Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>